Tấm gương đồng hiện lên gương mặt thiếu nữ trẻ trung – khuôn mặt tròn trịa, vầng trán đầy đặn, đôi mắt hạnh to tròn còn hơi hoe đỏ, sống mũi thanh tú, đôi môi nhỏ nhắn. Vẫn là một gương mặt mang nét trẻ con, chưa thể gọi là khuynh quốc khuynh thành, nhưng lại tươi tắn đáng yêu, nhu thuận dịu dàng.
Chính là dung mạo từng được người trong hoàng thất khen là “vượng phu chi tướng”.
Tay Thẩm Diệu run lên, chiếc gương rơi xuống đất phát ra tiếng “choang” vang vọng, mảnh gương vỡ tung tóe, như từng mảnh ký ức đau đớn vỡ nát trong tim nàng, sóng lòng cuộn trào mãnh liệt.
Nàng siết chặt hai tay, giọng nghẹn ngào bật ra thành tiếng. Hai hàng nước mắt tuôn trào như suối, không ngừng rơi xuống.
Trời xanh không phụ người! Trời xanh không phụ nàng!
Nàng đã trở về!
Cốc Vũ và Kinh Trập hoảng hốt. Cốc Vũ vội cúi xuống nhặt từng mảnh gương vỡ, lo lắng nói:
“Cô nương cẩn thận, kẻo giẫm phải!”
“Cô nương… sao lại khóc vậy?” – Kinh Trập đưa khăn lau mặt nàng, vừa lau vừa run, chỉ thấy thần sắc Thẩm Diệu lúc khóc lúc cười, như mê như tỉnh, trong miệng lẩm bẩm:
“Ta đã trở về… Ta thật sự đã trở về…”
Nàng bất chợt nắm chặt lấy tay Kinh Trập:
“Bây giờ là năm bao nhiêu?”
Kinh Trập hoảng sợ, nhưng vẫn thành thật đáp:
“Minh Tề năm thứ 68. Cô nương sao vậy? Cảm thấy trong người không khỏe sao?”
“Minh Tề 68… Minh Tề năm 68…” – Thẩm Diệu mở to đôi mắt, lòng chấn động không thôi.
Minh Tề năm 68 — chính là năm nàng mười bốn tuổi, cũng là năm định mệnh nàng gặp Phó Tu Nghi. Khi ấy, nàng đem lòng si mê hắn, thậm chí không tiếc ép phụ thân gả mình cho hắn bằng được!
Còn bây giờ…
Tiếng Cốc Vũ lại văng vẳng bên tai nàng:
“Cô nương đừng dọa nô tỳ, vừa mới hạ sốt mà đã như thế… Chẳng lẽ là sốt đến lú lẫn rồi? Đại cô nương thật quá độc ác, chẳng phải muốn lấy mạng cô nương hay sao…”
Kiếp trước, phần lớn cuộc đời nàng gắn liền với Phó Tu Nghi, luôn theo chân hắn bôn ba nơi triều chính. Những tháng ngày sống ở Thẩm phủ, đối với nàng, chỉ là một quãng ký ức nhạt nhòa, không hề có chút ấm áp nào...
Chuyện này nàng vẫn còn nhớ rất rõ, từng chuyện liên quan đến Phó Tu Nghi, nàng đều khắc ghi trong lòng.
Khi ấy, Thẩm Thanh nói với nàng rằng Phó Tu Nghi sẽ đến Thẩm phủ để thăm nhị thúc và tam thúc, liền kéo nàng trốn đi theo dõi lén. Đợi đến khi vào trong hoa viên, Thẩm Thanh lại bất ngờ đẩy nàng từ trên núi giả rơi xuống hồ.
Lúc được người ta vớt lên từ hồ, ngoài Phó Tu Nghi còn có mấy quan viên đồng liêu đứng đó. Ai nấy chỉ coi đây là một trò cười của Thẩm phủ mà thôi. Chuyện nàng si mê Định Vương sớm đã lan khắp kinh thành từ nửa năm trước, lần này chẳng qua chỉ là thêm một vết nhơ cho người đời giễu cợt.
Kiếp trước, sau khi tỉnh lại, nàng từng chỉ mặt trách Thẩm Thanh đã đẩy mình xuống hồ. Thế nhưng chẳng ai tin nàng, Thẩm Diệu khi ấy oan ức đến mức không thốt nên lời, lại còn bị lão phu nhân phạt cấm túc trong Phật đường. Đến trung thu cũng không được ra khỏi phủ. Sau đó, Thẩm Nguyệt lén lút thả nàng ra, dẫn theo nàng đến Bắc Đường dự yến ngắm cúc, cuối cùng trở thành trò cười cho thiên hạ.
Thẩm Diệu khẽ nhắm mắt lại.
Thẩm gia có ba phòng. Đại phòng là Thẩm Tín – phụ thân nàng – con trai trưởng của lão tướng quân và chính thất. Chính thất qua đời vì bệnh khi còn trung niên, lão tướng quân sau đó cưới kế thất, sinh ra nhị phòng Thẩm Quý và tam phòng Thẩm Vạn. Sau khi lão tướng quân mất, kế thất lên làm lão phu nhân hiện tại. Thẩm gia không phân ba nhà riêng biệt, ba huynh đệ cùng nương tựa lẫn nhau, tình cảm rất tốt, từng được ca tụng là một chuyện đẹp trong kinh thành.