Nghe giọng điệu này, có vẻ sinh viên y khoa thật sự rất dễ mang tâm lý cao ngạo.
Bác sĩ Tả Lương quay đầu nhìn hai thực tập sinh còn non nớt, trong lòng thầm nghĩ: [Ngươi nói năng ngạo mạn như vậy, không sợ có ngày bị vả mặt sao? Chính ngươi đã thực sự hiểu thế nào là nam nhân hay nữ nhân chưa?]
Với một người trẻ tuổi như Đỗ Mông Ân, chắc chắn còn chưa từng trải qua chuyện tình cảm nghiêm túc. Trong quan niệm truyền thống, một nam nhân có thực sự trưởng thành hay không phải dựa vào việc y đã thành gia lập nghiệp. Mà cho dù chưa đến mức ấy, chí ít cũng phải hiểu tình yêu là gì đã chứ.
Nhưng không! Trương Thư Bình – người đã quen biết Đỗ Mông Ân nhiều năm – hiểu rõ nội tình, liền bật cười nói: “Hắn có bạn gái từ hồi cấp ba rồi.”
Cái gì?
Nhóm đàn anh lập tức trợn mắt kinh ngạc.
Bọn họ đây còn chưa có bạn gái, vậy mà tên tiểu tử này lại đi trước một bước sao?
Đỗ Mông Ân nhanh chóng đưa tay bịt miệng Trương Thư Bình, lắc đầu phủ nhận: “Đừng nghe hắn nói linh tinh. Ta với các nàng chỉ là bằng hữu bình thường.”
Mọi người nhìn hắn bằng ánh mắt đầy hoài nghi, lại nhìn sang Trương Thư Bình – người đang bị bịt miệng mà trông vẫn như muốn nói ra điều gì đó.
Đỗ Mông Ân “oán hận” trừng mắt với Trương Thư Bình, rồi nhanh chóng kéo cả nhóm trở lại chủ đề ban đầu: “Thực tế là, khi nữ nhân đến một độ tuổi nhất định, sinh con xong rồi, thì những cơ quan sinh sản như tử cung hay buồng trứng cũng không còn quá quan trọng nữa. Vì sức khỏe tổng thể, nếu cần thiết, hoàn toàn có thể cắt bỏ.”
Dù là thầy thuốc hay bệnh nhân, khi điều trị bệnh tật, đôi khi không thể không cân nhắc giữa lợi và hại, buộc phải từ bỏ một phần cơ thể để bảo toàn sự sống.
“Khóc một chút cũng tốt, khóc xong rồi thì mọi chuyện cũng qua thôi.” Đỗ Mông Ân tỏ ra như một bác sĩ dày dặn kinh nghiệm, tiếp tục nói với giọng điệu điềm nhiên: “Người mắc bệnh cần phải chấp nhận hiện thực. Trong y học, có một giai đoạn tâm lý từ phủ nhận đến tiếp nhận sự thật.”
Những lời này không hề sai.
Chỉ là Trương Thư Bình nghe xong lại cảm thấy có chút lạnh lẽo, khẽ nhíu mày.
Cả hai đều là con cháu trong gia đình có truyền thống ngành y, nhưng có lẽ vì môi trường trưởng thành khác nhau mà tính cách, quan điểm sống của họ cũng không giống nhau. Trương Thư Bình có phần đa sầu đa cảm, còn Đỗ Mông Ân lại thiên về lý trí, nói chuyện nghe lạnh lùng vô tình hơn.
Bác sĩ Tả Lương bận rộn dẫn học sinh thực tập, không có thời gian để ý đến những cuộc trò chuyện vặt vãnh của bọn họ. Mãi đến khi Đỗ Mông Ân bất ngờ nhắc đến một chuyện khác, hắn mới thoáng dừng lại.
“So với những chuyện các ngươi đang bàn, điều phụ thân ta lo lắng nhất từ trước đến nay chính là bác sĩ gây tê.”
“Tại sao?” Trương Thư Bình tò mò hỏi.
“Phụ thân ta không nhận bao lì xì của bệnh nhân, nhưng người khác thì có. Mà bệnh nhân lại nghĩ rằng không ai trong bệnh viện nhận cả. Vì thế, có những người không đưa phong bì cho bác sĩ gây tê, rồi đến khi phẫu thuật giữa chừng... Ngươi đợi lát nữa xem sẽ biết.”
Bác sĩ Tả Lương phía trước vừa nghe liền lập tức quay đầu lườm một cái. Đỗ Mông Ân hiểu ý, lập tức im lặng.
Chuyện nhận phong bì trong bệnh viện không phải do bệnh viện quyết định, mà phụ thuộc vào từng bác sĩ khác nhau. Vì vậy, nếu nghe nói ở đâu đó có bác sĩ nhận phong bì, cũng đừng vội đánh đồng rằng cả bệnh viện đều như vậy.
Thực tế, ngay trong cùng một phòng ban, có người kiên quyết không nhận, nhưng cũng có kẻ lén lút nhận rất nhiều. Những chuyện này, nếu không có bằng chứng cụ thể, bệnh viện cũng chỉ có thể mắt nhắm mắt mở. Chỉ khi sự việc bị phanh phui, bệnh viện mới có thể đứng ra xử lý và tuyên bố rằng họ đã từng cảnh cáo trước đó.
Ở lĩnh vực lâm sàng, ngoại khoa là nơi vấn đề phong bì phổ biến nhất, mà bác sĩ gây tê lại là một đối tượng ít được chú ý nhưng cũng nằm trong danh sách này.
Hầu hết mọi người có thể hiểu được lý do bệnh nhân đưa phong bì cho bác sĩ ngoại khoa. Một phần là vì sợ xảy ra bất trắc khi nằm trên bàn mổ, phần khác là để tạo mối quan hệ, đề phòng nếu có biến chứng sau phẫu thuật, họ có thể nhờ bác sĩ hỗ trợ giải quyết.
Nhưng phong bì dành cho bác sĩ gây tê thì lại là một điều ít ai nói đến. Theo lời truyền miệng, bác sĩ gây tê thậm chí còn quan trọng hơn bác sĩ ngoại khoa, vì nếu gây tê có vấn đề, bệnh nhân có thể mất mạng ngay trên bàn mổ. Dân gian thường nghĩ rằng bác sĩ gây tê chỉ phụ trách gây mê, nhưng thực tế, công việc của họ rất khác với bác sĩ ngoại khoa.
Điều Đỗ Mông Ân vừa nhắc đến chính là một trong những điểm mà nhiều người chưa hiểu rõ. Mặc dù bác sĩ ngoại khoa và bác sĩ gây tê cùng làm việc trong phòng phẫu thuật, nhưng thực chất, họ thuộc hai chuyên khoa khác nhau, phạm vi nghiên cứu cũng khác biệt rất lớn. Bên ngoài có thể nghĩ họ rất thân thiết, nhưng trên thực tế, vì khối lượng công việc hàng ngày quá nhiều, họ hiếm khi có thời gian giao lưu.
Bệnh nhân khi đi khám bác sĩ ngoại khoa không thể lúc nào cũng có cơ hội xây dựng mối quan hệ với toàn bộ đội ngũ bác sĩ gây tê. Ở những bệnh viện tuyến trên, số lượng bác sĩ gây tê rất đông. Đặc biệt là trong các bệnh viện hạng ba, nơi có nhiều ca phẫu thuật ngoại khoa, các bác sĩ ngoại khoa cũng không thể chỉ định một bác sĩ gây tê cụ thể cho bệnh nhân của mình.
Trên thực tế, mức độ kiêu ngạo của bác sĩ gây tê đôi khi còn ngang ngửa với các giáo sư đầu ngành của khoa ngoại. Điều này hoàn toàn đi ngược lại suy nghĩ của nhiều bệnh nhân và người nhà.
Khi Đỗ Mông Ân nói ra tin tức này, Tạ Uyển Oánh—người kiếp trước từng làm việc trong bệnh viện—liền nhanh chóng hiểu được ẩn ý.
Trái lại, Trương Thư Bình và Cảnh Vĩnh Triết chỉ chớp mắt, nghe mà chẳng hiểu gì.
Theo những gì bọn họ biết về bác sĩ, dù có nhận phong bì hay không, cũng tuyệt đối không dám giở trò trong quá trình điều trị. Nếu xảy ra sự cố y khoa, người chịu tổn thất lớn nhất chính là bác sĩ. Chính vì lý do này mà các bậc tiền bối trong ngành ngoại khoa thường xuyên nói với bệnh nhân rằng việc đưa phong bì hay không cũng không ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật. Bác sĩ gây tê cũng giống bác sĩ ngoại khoa, đều sợ xảy ra sự cố y khoa. Nhưng chẳng lẽ vẫn có khả năng khác dẫn đến chuyện này sao?
Bất kể ra sao, khi bọn họ bước vào phòng mổ, bệnh nhân đã được gây tê ngoài màng cứng và nằm sẵn trên bàn phẫu thuật.
Người chuẩn bị phẫu thuật là một nữ bệnh nhân khoảng sáu mươi tuổi. Vì chỉ dùng phương pháp gây tê ngoài màng cứng nên bệnh nhân vẫn hoàn toàn tỉnh táo.
Bác sĩ Tả Lương bước đến bên cạnh bệnh nhân, thay mặt Đỗ Hải Uy nói vài lời trấn an, giúp bà bình tĩnh hơn.
Trước khi bác sĩ chính đến, các trợ thủ tiến hành sát trùng, trải khăn, thực hiện các bước chuẩn bị trước phẫu thuật theo đúng quy trình.
Đến giờ phẫu thuật dự kiến, Đỗ Hải Uy xuất hiện.
Bác sĩ Tả Lương đảm nhận vị trí phụ mổ chính, hai thực tập sinh đảm nhận vai trò phụ mổ thứ hai và thứ ba. Tạ Uyển Oánh phụ trách máy hút dịch, còn Cảnh Vĩnh Triết giữ vết mổ. Hai kiến tập sinh đứng ở một góc trong phòng phẫu thuật quan sát.
Khi phụ thân đã đến, Đỗ Mông Ân không dám nhiều lời, ngoan ngoãn giữ im lặng cùng Trương Thư Bình. Ngược lại, Trương Thư Bình vì những lời Đỗ Mông Ân nói trước đó mà lén lút quan sát bác sĩ gây tê.
Bác sĩ gây tê họ Chu, khoảng bốn mươi tuổi, chắc hẳn đã có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề. Về mặt chuyên môn, kỹ thuật của ông ta đáng lẽ phải qua nhiều thử thách, không cần khiến ai lo lắng.
Trước khi bắt đầu phẫu thuật, bác sĩ chính theo quy trình dùng nhíp kẹp nhẹ vào da bụng bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không kêu đau, chứng tỏ bước đầu gây tê đã có hiệu quả, có thể tiến hành rạch dao.
Tuy nhiên, đây chỉ là bước kiểm tra ban đầu, vì mỗi bệnh nhân có phản ứng khác nhau với thuốc tê và cảm giác đau. Nguyên nhân của sự khác biệt này có thể nằm ở tốc độ hấp thu thuốc gây tê của từng cơ thể. Có người hấp thu thuốc nhanh, có người lại chậm. Vì tốc độ hấp thu thuốc tê không thể đánh giá chính xác trước phẫu thuật, nên trong quá trình mổ, bác sĩ phải theo dõi tình trạng thực tế để điều chỉnh.
Việc bác sĩ chính kiểm tra mức độ đau trước khi hạ dao không thể đảm bảo bệnh nhân sẽ không cảm thấy đau trong suốt quá trình phẫu thuật. Chỉ có bác sĩ gây tê mới có thể liên tục theo dõi và điều chỉnh thuốc, đảm bảo bệnh nhân không chỉ an toàn mà còn cảm thấy thoải mái trong suốt ca mổ.
Hiện nay, để đảm bảo an toàn, bác sĩ gây tê thường bắt đầu với liều lượng tối thiểu. Thuốc được đưa vào thông qua một ống nhỏ đặt tại vị trí tiêm ngoài màng cứng, giúp dễ dàng bổ sung thuốc khi cần thiết trong quá trình phẫu thuật.
Ca phẫu thuật đang được tiến hành. Bác sĩ chính cắt mở thành bụng, cũng như mọi ca mổ khác, trước tiên phải kiểm tra tình trạng tử cung và các cơ quan xung quanh. Sau khi kiểm tra xong, họ dùng gạc thấm nước muối để che phủ ruột, đồng thời giữ chặt vết mổ.
Cảnh Vĩnh Triết lập tức hỗ trợ, cố gắng kéo rộng hai bên thành bụng để tạo điều kiện cho các bác sĩ phẫu thuật khác có thể quan sát rõ khu vực cần can thiệp.
Do khối u trong tử cung có kích thước quá lớn, việc thao tác trong khoang bụng trở nên vô cùng khó khăn. Để thuận tiện hơn, bác sĩ phải dùng kẹp để kéo tử cung ra ngoài, tiến hành xử lý bên ngoài khoang bụng. Dù thế nào đi nữa, một khối u to như vậy chắc chắn cần phải kéo căng liên tục mới có thể bộc lộ hoàn toàn vùng tổn thương. Không có đủ lực kéo, các bác sĩ sẽ không thể tiếp cận và xử lý toàn bộ cơ quan bị bệnh.
Khi ca mổ diễn ra đến giai đoạn này, bệnh nhân bất ngờ rên rỉ.
Tiếng rên đau đớn khiến Cảnh Vĩnh Triết và Trương Thư Bình giật mình. Cả hai không tin nổi vào tai mình. Rõ ràng bệnh nhân đã được gây tê, hơn nữa bác sĩ gây mê vẫn đang có mặt tại phòng phẫu thuật. Sao lại có chuyện bệnh nhân cảm nhận được đau đớn? Điều càng khiến bọn họ ngạc nhiên hơn chính là bác sĩ Chu – người phụ trách gây mê – vẫn cúi đầu bận rộn điều gì đó, hoàn toàn phớt lờ tiếng kêu của bệnh nhân. Khoảnh khắc ấy, mọi người đều nghĩ rằng có lẽ tai bác sĩ Chu đột nhiên bị điếc. Trong khi tất cả các bác sĩ khác đều phản ứng trước âm thanh ấy, thì chỉ riêng bác sĩ Chu tỏ ra như không hề nghe thấy gì.
Là bác sĩ phẫu thuật chính, sắc mặt Đỗ Hải Uy lập tức trầm xuống. Trong lúc phẫu thuật, nếu bác sĩ nghe thấy bệnh nhân kêu đau, tâm trạng chắc chắn sẽ vô cùng căng thẳng và lo lắng.
“Bác sĩ Chu.” Giọng ông trầm hẳn xuống.
Lần đầu gọi, bác sĩ Chu dường như không nghe thấy. Mãi đến khi một y tá bước đến nhắc nhở, ông ta mới ngẩng đầu lên, thản nhiên đáp: “Không sao, ta sẽ tăng thêm thuốc cho nàng.” Giọng điệu lạnh nhạt, gương mặt không chút dao động, cứ như thể hoàn toàn nắm rõ tình trạng bệnh nhân trong tay.
Những bác sĩ gây mê như bác sĩ Chu là kiểu người có thể ngang hàng với Đỗ Hải Uy mà không hề nao núng. Xét về số năm trong nghề, cả hai không chênh lệch bao nhiêu. Còn về chuyên môn, dù Đỗ Hải Uy có là giáo sư ngoại khoa đi chăng nữa, cũng không thể am hiểu gây mê bằng bác sĩ Chu. Trong một ca phẫu thuật, bác sĩ gây mê có quyền kiểm soát hoàn toàn về mặt chuyên môn, nên Đỗ Hải Uy dù là bác sĩ chính cũng không thể tùy tiện can thiệp vào công việc của ông ta.
Chính vì tự tin vào chuyên môn của mình, bác sĩ Chu vẫn điềm nhiên như cũ.
Nhưng vấn đề là, bệnh nhân đang đau đớn kêu rên, vậy bác sĩ ngoại khoa phải tiếp tục phẫu thuật thế nào đây?
Đây là một ca mổ trên cơ thể người sống, chứ không phải giết mổ gia súc gia cầm. Dù có là giết bò mổ heo đi chăng nữa, cũng không ai có thể nhẫn tâm đứng nghe tiếng kêu thảm thiết suốt mấy tiếng đồng hồ như vậy.
Giọng Đỗ Hải Uy mang theo chút bức ép: "Ngươi không nghe thấy nàng đang kêu đau sao, bác sĩ Chu?"
Gây mê là để bệnh nhân không phải chịu đau đớn. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất, cũng là sứ mệnh hàng đầu của một bác sĩ gây mê. Vậy mà giờ đây, người chịu trách nhiệm gây tê lại có thể thản nhiên đứng đó, mặc kệ bệnh nhân rên rỉ trong đau đớn.
Trong giới y học lâm sàng, người ta vẫn hay nhắc đến khái niệm "chai lì cảm xúc" của bác sĩ. Đừng nghĩ chỉ có bác sĩ phẫu thuật, những người trực tiếp chứng kiến bệnh nhân chịu đựng thống khổ, mới trở nên vô cảm. Trên thực tế, bác sĩ gây mê còn phải đối diện với nỗi đau của bệnh nhân nhiều hơn, và họ cũng dễ dàng trở nên tê dại trước những tiếng rên rỉ ấy.
Dùng quá nhiều thuốc tê có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm. Vì thế, trong quá trình rèn luyện, nhiều bác sĩ gây mê lựa chọn việc thà để bệnh nhân chịu một chút đau còn hơn là mạo hiểm tăng thêm thuốc. Bởi nếu gây tê quá liều, bệnh nhân có thể rơi vào tình trạng không bao giờ tỉnh lại hoặc gặp phải những di chứng nghiêm trọng. Một khi điều đó xảy ra, hậu quả sẽ là một sai lầm y khoa không thể cứu vãn.