Khổng Thư bước đến bên cạnh anh.
“Thân đại ca, đại ca có nghe thấy em nói gì không?”
“Khổng Thư, hình như chúng ta không cần vất vả nữa rồi.” Thân Hướng Diễn nhíu mày liếc nhìn cô một cái, sau đó lấy từ trong tủ thuốc ra một tấm thẻ mỏng.
Là thẻ ra vào dành cho nhân viên trường học, có thể tự do ra vào khuôn viên trường.
Tấm thẻ được treo bằng một sợi dây xanh đeo cổ, quấn sơ qua mấy vòng. Thân Hướng Diễn tháo dây ra, tấm ảnh trên thẻ hiện rõ trước mắt hai người.
Khổng Thư nhìn kỹ, tim chợt thót lại.
Ảnh trên thẻ chính là người phụ nữ trong bức ảnh trên xe BMW, cũng chính là thi thể trong xe đó.
Dưới tấm ảnh là hai dòng chữ.
Ngô Thủy Địch.
Giáo viên y tế thực tập trường Trung học Nghi Xuyên.
Đúng là đi mòn gót giày không thấy, chẳng tốn công sức lại tới tay… À không, cũng đã tốn không ít công sức.
“Xem ra máu mũi của tớ cũng không chảy vô ích, cuối cùng cũng có chút manh mối rồi.” Khổng Thư có phần kích động, suýt chút nữa muốn nắm tay Thân Hướng Diễn nhảy bật lên tại chỗ.
“Đây chính là văn phòng của Ngô Thủy Địch…” Thân Hướng Diễn vẫn giữ vẻ bình tĩnh như thường, không có biểu hiện gì lạ, anh bắt đầu quan sát kỹ phòng y tế này: “Cửa sổ và cửa ra vào đều không đóng, có thể không phải là quên đóng, mà là cô ấy chưa kịp đóng thì đã xảy ra chuyện rồi.”
Vẻ bình tĩnh của Thân Hướng Diễn cũng đã lây qua cho Khổng Thư, cảm xúc phấn khích của cô nhanh chóng lắng xuống.
Cô đi đến bàn làm việc trong phòng y tế, kéo từng ngăn kéo một ra tìm kiếm manh mối: “Chúng ta tìm thử xem có thông tin nào hữu ích không, biết đâu sẽ tìm ra manh mối của hung thủ.”
Thân Hướng Diễn cũng lập tức nhập cuộc, lục tung ba cái tủ thuốc, thậm chí còn tỉ mỉ đến mức mở từng lọ thuốc ra kiểm tra.
Trong ngăn kéo bàn làm việc không có gì đặc biệt, gần như toàn là văn kiện của nhà trường và biên bản các cuộc họp.
Ngoài ra không có vật dụng cá nhân nào của Ngô Thủy Địch, chỉ có một chiếc cốc màu hồng đào là có thể nhìn ra được nó thuộc về cô ấy.
“Chỗ cậu có phát hiện gì không?” Trước mặt Thân Hướng Diễn là một đống lọ thuốc, xem ra cũng không thu hoạch được gì.
Khổng Thư lắc đầu, rồi lại gật đầu, cô quơ quơ quyển sổ ghi biên bản cuộc họp trong tay: “Có, từ sổ ghi chép cuộc họp này tớ phát hiện… Chữ cô ấy viết rất đẹp.”
Thân Hướng Diễn: …
Khổng Thư bất lực, ngồi phịch xuống ghế, chuẩn bị nghiêm túc xem xét sổ ghi chép trong tay thì đột nhiên bị một vật gì đó sáng loáng làm chói mắt.
Cô nheo mắt lại, lùi ghế ra sau một chút, rồi nhìn thấy trong khe hẹp dưới gầm bàn có một chiếc gương tròn cỡ lòng bàn tay đã vỡ tan tành.
“Ở đây có một cái gương vỡ.”
Khổng Thư vừa nói vừa cúi người, thò tay vào khe hẹp đó, định lấy chiếc gương ra.
Nhưng khi ngón tay cô chạm xuống thì lại đụng phải một vật khác.
Vật đó bị cô đụng trúng, trượt sâu vào bên trong thêm vài cm, không với tới được nữa.
Cô cố hết sức thò tay sâu vào hơn nhưng khe quá hẹp, chỉ vừa hai ngón tay, sâu hơn nữa thì không tài nào với được, đến mức ngón tay chuột rút cũng không chạm tới.
Cô cố gắng đẩy mạnh chiếc bàn nặng ra nhưng chỉ nhích được một chút.
Thân Hướng Diễn bước lại gần, giữ lấy một góc bàn, dồn lực đẩy mạnh, chiếc bàn lập tức bị đẩy xa ra một đoạn khá dài.
Khổng Thư giật mình kinh ngạc.
Chắc chắn là Thân Hướng Diễn có tập tạ!
Tất cả những thứ dưới gầm bàn đều lộ ra, một chiếc gương tròn vỡ nát, một đống bụi bặm và rác vụn cùng với một chiếc máy tính bảng siêu mỏng.
Thứ mà lúc nãy ngón tay cô chạm phải chính là chiếc máy tính bảng này.
Ngoài phần tiếp xúc với mặt sàn bám đầy bụi, phần còn lại của máy vẫn còn rất mới và sạch sẽ, xem ra là mới được giấu vào đây không lâu.
Cô vội vàng nhặt máy tính bảng lên, nhấn nút nguồn.
Sau khi khởi động, máy yêu cầu nhập mật khẩu sáu chữ số mới có thể vào.
“Cậu nghĩ cái máy tính bảng này là do Ngô Thủy Địch cố tình để lại sao?”
Khổng Thư vừa hỏi, trong lòng bỗng dưng dâng lên một cảm giác bất an nhưng nhất thời không biết nguồn cơn của sự bất an ấy từ đâu mà đến.
“Ai lại rảnh rỗi đến mức đi nhét máy tính bảng của mình vào chỗ như thế này.” Thân Hướng Diễn ngồi xổm xuống, cầm lấy máy tính bảng từ tay cô, quan sát một lúc: “Chắc chắn là cố tình giấu dưới gầm bàn.”
“Nếu là cố ý, vậy chẳng phải chứng tỏ trong này có thứ gì quan trọng sao…”
Đột nhiên Khổng Thư nghĩ đến điều gì đó, rùng mình một cái, hít sâu một hơi: “Cậu nói xem, có khi nào cô ấy biết trước mình sẽ gặp chuyện nên cố ý giấu chiếc máy tính bảng đi không?”
Lời vừa dứt, bỗng một giọng nói trầm thấp, lạnh lẽo vang lên từ trên đỉnh đầu.
“Hai đứa đang làm gì đấy?”
Khổng Thư đang mải suy nghĩ, bị giọng nói đột ngột dọa cho giật mình, suýt thì hét lên.
Bên cạnh, Thân Hướng Diễn cũng bị dọa sợ, đồng tử co rút lại nhưng rất nhanh đã khôi phục lại vẻ bình tĩnh thường ngày.
Hai người đồng thời ngẩng đầu nhìn về phía phát ra tiếng nói, ngạc nhiên không hiểu sao lại có người đến gần mà chẳng phát ra tiếng động.
Đập vào mắt họ lại là một gương mặt quen thuộc và thân thiết.
“Thầy Lê?”
Khổng Thư vội vàng đứng dậy, có chút bất ngờ: “Sao thầy lại ở đây ạ?”
…
Trong đời mỗi người đều sẽ gặp được một người thầy tốt.
Người thầy ấy đủ sức thay đổi quỹ đạo cuộc đời một con người, hoặc trở thành ngọn đèn soi sáng con đường mịt mù phía trước.
Tóm lại, ý nghĩa rất phi thường.
Với Khổng Thư, Lê Minh chính là người thầy như vậy.
Trước năm lớp 11, môn toán luôn là điểm yếu của cô, nói là “môn què” cũng không sai.
Rõ ràng các môn khác đều có thể lọt vào top 10 của lớp, vậy mà chỉ riêng môn toán là cô chưa từng trên trung bình, lần nào cũng lơ lửng quanh mốc 50 điểm.
Mỗi lần vào tiết toán, Khổng Thư cứ như nghe thiên thư, không hiểu gì cả, dần dần sinh ra ác cảm, thậm chí quyết định bỏ luôn môn toán, tính tập trung cải thiện các môn khác để giữ tổng điểm.
Tưởng rằng sẽ chẳng bao giờ tạo được sóng gió gì với môn toán, vậy mà năm lớp 11 lại có chuyển biến, mà người tạo nên bước ngoặt ấy chính là Lê Minh.
Ngay đầu năm lớp 11, trường có một giáo viên toán mới, chính là thầy Lê Minh. Lớp đầu tiên mà thầy phụ trách chính là lớp A1.
Bản thân Khổng Thư không thích học toán nên ấn tượng ban đầu với thầy Lê cũng không mấy sâu đậm.
Chỉ nhớ thầy mặc sơ mi trắng, tóc chải ngôi ba bảy gọn gàng, nói tiếng phổ thông rất chuẩn, chỉ khoảng ba mươi tuổi, thuộc hàng giáo viên trẻ ở trường Trung học Nghi Xuyên.
Có lẽ vì còn trẻ nên cách giảng dạy của thầy cũng khác với các giáo viên toán trước đó, thú vị và dễ hiểu hơn.
Bất tri bất giác, Khổng Thư đã bắt đầu hiểu được một chút.
Một người thầy giỏi được gọi là người thầy tốt là vì họ có đôi mắt biết phát hiện ra người tài.
Dù Khổng Thư không nổi bật trong lớp nhưng Lê Minh lại rất quan tâm cô.
Có lẽ bởi vì trong top 10, chỉ có mình cô là chưa bao giờ trên trung bình môn toán.
Mỗi lần chấm bài tập hay đề thi, thầy đều khoanh kỹ phần trọng tâm cho cô, kiên nhẫn giảng đi giảng lại các kiến thức cơ bản. Trên lớp cũng thường xuyên gọi cô phát biểu, khiến cô không thể không tập trung nghe giảng.
Lâu dần, Khổng Thư bỗng nhận ra, làm toán dường như không còn khó khăn như trước nữa…
Bài thi giữa kỳ năm lớp 11 chính là lần đầu tiên cô qua được môn toán trong suốt những năm học phổ thông.
Sau kỳ thi đó, Lê Minh gọi riêng cô ra khỏi lớp, phân tích lý do vì sao cô luôn yếu môn toán.
“Em có thể lọt vào top 10 của lớp đủ để chứng minh em rất thông minh. Lý do em học toán kém là vì nền tảng căn bản chưa vững. Ngay cả công thức hiệu hai bình phương em cũng viết sai nên đương nhiên sẽ thấy toán khó. Chỉ cần em nắm vững cơ bản, thầy cá là em sẽ bứt phá.”
Về sau, Khổng Thư bắt đầu học lại kiến thức cơ bản của môn toán. Trước kỳ thi đại học, dưới sự giúp đỡ của Lê Minh, cô miệt mài luyện đề, cuối cùng khi điểm thi đại học được công bố, cô đã đạt được điều mình mong muốn.
Tổng điểm môn toán là 150, cô được 114. Dù không phải xuất sắc nhất, nhưng với Khổng Thư thì như thế là đủ rồi.
Cho đến tận bây giờ, cô vẫn vô cùng biết ơn và kính trọng Lê Minh.